Nhiệt độ cơ thể và sốt

(Bác sĩ Nguyễn Ý Đức)

Việt Báo Thứ Sáu, 4/11/2008

Giữa khuya, bà mẹ chợt thức giấc vì tiếng khóc của cháu bé ở phòng bên. Bà vội vàng sang coi xem chuyện gì xảy ra.
Ôm con vào lòng, bà thấy người cháu nóng hổi và quần áo thấm ướt mồ hôi. Hoảng hốt, bà vội vàng đánh thức ông chồng dậy bế cháu, và bà đi lấy lọ thuốc giảm sốt còn lại sau khi cháu bị bệnh cách đây vài tháng. 
Đây là một phản ứng hầu như tự nhiên của nhiều bà mẹ cũng như ở nhiều người khác khi thấy nhiệt độ cơ thể lên cao. Vì cho là mình có thể mắc một bệnh nào đó, cho nên vội vàng uống vài viên thuốc giảm sốt để chặn bệnh.  
Các giới chức y khoa lại không nghĩ vậy, vì theo họ, nhiệt độ cơ thể lên cao có thể vô hại, đôi khi còn có lợi cho sức khỏe.
Theo bác sĩ Eugene Dubois: "Sốt chỉ là một triệu chứng, có thể là một người bạn chứ không chắc là kẻ thù"
Trong tác phẩm "Fever, the Heat that Heals", tác giả H.S. Benjamin viết: "Sức khỏe con người có thể tùy thuộc vào một "bếp lò" gắn trong cơ thể để đốt cháy tất cả các vi sinh vật gây bệnh".
Theo tác giả, sốt làm giảm sức mạnh của vi khuẩn nhờ đó kháng thể dễ dàng tiêu diệt chúng. Và ông ta nhắn nhủ: "Lần sau nếu bị sốt, xin cứ bình tĩnh nhớ rằng nhiệt độ cao trong cơ thể sẽ bảo vệ ta và cứ thoải mái nẳm nghỉ trên giường đừng lo ngại, mọi sự sẽ nhẹ nhàng trôi qua. Các tế bào bị vi khuẩn gây thương tích sẽ được đẩy ra khỏi cơ thể và được thay thế bằng các tế bào lành mạnh".
Đây cũng chỉ là một ý kiến trong nhiều ý kiến khác.
Xin cùng tìm hiểu về hiện tượng "sốt" này.

Nhiệt độ cơ thể
Một trong những đặc tính của động vật có vú là khả năng giữ nhiệt độ cơ thể ổn định, mặc dù có thay đổi trong môi trường sinh sống.
Có nhiều nhận định khác nhau về nhiệt độ trung bình của cơ thể. Với một số tác giả, 37°C (98.6°F) là bình thường, nhưng nghiên cứu mới đây cho hay thân nhiệt trung bình là 98.0°F hoặc thấp hơn.
Mỗi người có nhiệt độ trung bình khác nhau. Nhiệt độ ở trẻ em hơi cao hơn người lớn, nam giới thấp hơn nữ giới một chút.
Thân nhiệt thay đổi tùy theo thời gian trong ngày, thấp nhất vào sáng sớm khi đang ngủ và cao nhất vào nửa buổi chiều.
Vì vậy, thân nhiệt trung bình có thể du di giữa 36.°C- 37.4°C  (97°- 99.4°F).
Thân nhiệt tăng khi ăn uống tiêu hóa thực phẩm, vận động cơ thể, cơ bắp co căng, có kinh nguyệt, có thai, khí hậu nóng ấm, mặc nhiều quần áo, cảm xúc mạnh, run lạnh.
Nhiệt độ hơi giảm khi thời tiết giá lạnh.
Sự tăng giảm này đều có tính cách tạm thời, ngắn hạn.
Thân nhiệt được Cấu-tạo-dưới-đồi (hypothalamus) trong não bộ điều hòa, duy trì ở mức trung bình.
Hệ thần kinh luôn luôn chuyển tới cấu tạo này tình trạng nóng lạnh ở các vùng khác nhau của cơ thể. Cơ quan sẽ kích thích các phản ứng để tăng hoặc giảm nhiệt độ cơ thể. Chẳng hạn tăng hoặc giảm máu ấm từ trung tâm cơ thể ra ngoại vi mát lạnh; tăng hoặc giảm sự chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng; tăng bốc hơi qua đổ mồ hôi…
Khi thân nhiệt xuống thấp, bộ phận này sẽ ra lệnh cho cơ thể làm một động tác nào đó, như co giựt, run run các bắp thịt để tạo ra nhiệt. Ngược lại khi thân nhiệt cao, các tuyến mồ hôi được não kích thích để ra nhiều mồ hôi và hạ nhiệt độ.
Đôi khi hypothalamus "tái phối trí" (reset) thân nhiệt cao hơn để đáp ứng với bệnh tật, nhiễm khuẩn hoặc các nguyên nhân khác. Theo các nhà nghiên cứu, nâng cao thân nhiệt là một phương thức của cơ thể để chống cự và hủy diệt tác nhân gây bệnh.
Cần lưu ý tới sự thay đổi nhiệt độ bình thường ở người cao tuổi và trẻ thơ. Họ đều dễ dàng thất thoát nhiệt độ khi tiếp xúc với khí hậu lạnh và đưa tới thiểu nhiệt (hypothermia). Ở lớp tuổi này, nhiều khi dù đã bị nhiễm trùng mà nhiệt độ chưa tăng, cho nên khi tìm ra bệnh thì quá trễ.

Đo thân nhiệt
Nhiều người thường lấy bàn tay sờ lên trán coi có nóng sốt hay không. Đây cũng là phương thức thực tế, nhưng không chính xác. Do đó, nên dùng các loại nhiệt kế để đo nhiệt độ.
Mỗi phần của cơ thể có nhiệt độ khác nhau.
Miệng là nơi thường được dùng để đo nhiệt độ. Nhiệt độ miệng giảm khi ăn uống món ăn lạnh hoặc khi bị kích xúc; tăng khi ăn thực phẩm nóng, miệng nhai, hút thuốc lá hoặc có nhiều nước miếng.
Có nhiều loại nhiệt kế khác nhau:
1-Nhiệt kế số (Digital thermometer) cho biết kết quả rất chính xác và nhanh và có thể dùng để đo thân nhiệt ở miệng, hậu môn, nách. Nhiệt kế có nhiều loại với kích thước, hình dáng khác nhau và có thể mua ở tiệm thuốc tây hoặc siêu thị.

Luôn luôn đọc kỹ hướng dẫn trước khi dùng.
2-Nhiệt kế điện đo nhiệt độ ở tai (Electric ear thermometer) nhanh, chính xác, dễ dùng và hiện nay rất phổ biến. Tuy nhiên, Hội Nhi Hoa Kỳ khuyên không nên dùng đối với các em dưới 3 tháng vì lỗ tai các em nhỏ và kết quả không đúng lắm.
3-Nhiệt kế băng nhựa đặt trên trán, không chính xác.
4-Nhiệt kế dưới hình thức núm vú (Pacifier Thermometer), tiện lợi nhưng không chính xác.
5-Nhiệt kế thủy ngân (Glass mercury thermometer) trước đây rất thông dụng, nhưng nay ít người dùng, nhất là ở trẻ em, vì nhiều người e ngại nhiệt kế vỡ, thủy ngân vào miệng. Thực ra thủy ngân trong nhiệt kế rất ít.
6-Nhiệt kế đo nhiệt độ tại động mạch trán (temporal artery thermometer) được giới thiệu như chính xác bằng lấy nhiệt độ ở hậu môn và chính xác hơn lấy nhiệt độ ở tai.
Ngoài ra, còn có dụng cụ đặc biệt đo nhiệt độ từng vùng của cơ thể qua các tia phóng xạ phát ra từ da. Nơi nào có tăng sự chuyển hóa và máu lưu thông thì nhiệt độ lên cao, như trong trường hợp ung thư hoặc tế bào bị viêm sưng. Nơi ít máu lưu thông như tắc mạch máu, nhiệt độ thấp. Phương pháp được áp dụng để tìm kiếm các bệnh ung thư như ung thư vú, bệnh của mạch máu ngoại vi, bệnh ngoài da...
Đo thân nhiệt dễ dàng, kết quả chính xác, khách quan nên thường được dùng là một trong bốn dấu hiệu quan trọng (vital signs) để ước định tình trạng bệnh tật. Đó là nhịp tim, hơi thở, huyết áp và nhiệt độ cơ thể.

Sốt là gì?
Sốt là khi nhiệt độ trong người cao hơn mức trung bình.
Nhiều nhà chuyên môn đề nghị chính xác hơn: sốt là khi nhiệt độ lên cao vì một bệnh nào đó chứ không phải vì các lý do thông thường như sự tiêu hóa thực phẩm, khi có cảm xúc mạnh, khi vận động cơ thể, có thai, có kinh nguyệt...
Cẩn thận hơn, có người thêm là nếu nhiệt độ cơ thể lên quá 37.2°C kèm theo đổ mồ hôi, hơi thở nhanh, mạch máu ngoài da giãn nở, đó là sốt.
Nhiệt độ bằng hoặc cao hơn 38°C (100°F) khi đo ở hậu môn, hoặc cao hơn 37.5°C (100.4°F) khi đo ở miệng là sốt.
Ở người bệnh, nhiệt độ được đo ba lần trong ngày, được ghi lên một biểu đồ để giúp theo dõi bệnh trạng. Một số bệnh có những cơn sốt đặc biệt, cho nên biểu đồ nhiệt độ cũng giúp chẩn đoán bệnh. Chẳng hạn:
-Sốt định kỳ (relapsing fever) với vài ngày nhiệt độ lên cao rồi vài ngày bình thường như trong bệnh sốt rét.
-Sốt lên xuống hai lần trong ngày ở bệnh viêm khớp, thấp khớp.
-Sốt liên tục (Continuous fever) trong ngày như viêm sưng phổi.
-Cơn sốt tăng giảm từng lúc (remittent fever) như trong bệnh lao phổi với nhiệt độ buổi sáng cao hơn buổi chiều.
-Sốt từng hồi hoặc gián đoạn (intermittent fever)
Sốt diễn ra theo ba giai đoạn:
a-Cơ thể phản ứng với tác nhân gây sốt bằng cách tăng bạch cầu, nhiệt độ lên cao, da lạnh, cơ thể run rẩy, mạch máu ngoại vi co hẹp, lông tóc dựng đứng, da xanh nhợt, khô. 
b-Trong giai đoạn 2, nhiệt độ giữ ở mức cao, cơ thể hết run
c-Sau đó, nhiệt độ giảm, mạch máu ngoại vi giãn mở, đổ mồ hôi, da lạnh và trở lại mầu sắc bình thường.
Sốt có thể ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn thường là khoảng 2 tuần lễ, trong các trường hợp nhiễm vi khuẩn. Dài hạn lâu hơn hai tuần lễ như trong trường hợp ung thư hoặc sốt không rõ nguyên nhân (FUO).
Theo các khoa học gia, một cơn sốt nhẹ làm tăng interferon, một chất thiên nhiên chống virus và ung thư; tăng khả năng diệt vi khuẩn của bạch huyết cầu và lymphô bào. Nhiệt độ cao cũng gây cản trở cho sự tăng sinh của vi khuẩn.
Quan sát ở súc vật, người ta thấy khi một con thằn lằn bị vi khuẩn xâm nhập, nó sẽ bò ra phơi mình ngoài nắng để tăng nhiệt độ cơ thể.
Nguyên nhân gây sốt
Sốt có thể gây ra do các nguyên nhân từ ngoài hoặc từ trong cơ thể.
1-Nguyên nhân từ ngoài cơ thể:
-Nhiễm các loại vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng.
-Dưới tác dụng của vài dược phẩm như kháng sinh nhóm Penicillin, sulfonamid, thuốc chữa bệnh lao, thuốc an thần loại barbiturates, thuốc chống kinh phong phenytoin, thuốc sổ táo bón, chất interferon, các loại thuốc kích thích (Ectasy, angel dust...)
-Tiêm vài chất đạm lạ đối với cơ thể như các loại globulin trị bệnh uốn ván
-Truyền máu.
-Thời tiết oi ả, nóng bức, tiếp xúc lâu với ánh nắng mặt trời.
2-Nguyên nhân từ cơ thể:
-Do sự hủy hoại tế bào sau thương tích, thiếu dinh dưỡng, viêm sưng mô bào, bệnh của các mô liên kết như thấp khớp, lupus ban đỏ SLE, thống phong, xuất huyết dạ dày, thiểu máu các cơ quan (nhồi máu cơ tim, lá lách…)
-Phản ứng miễn dịch của cơ thể khi vật lạ xâm nhập.
-Các trường hợp tế bào mới tăng sinh bất thường như trong khối u ác tính hoặc lành tính. Nhiệt độ có thể kéo dài cả tháng, đôi khi cả năm và là vấn đề nguy hiểm cần để ý.
- Rối loạn chuyển hóa cấp tính như trong cơn cường tuyến giáp, bệnh thống phong
-Tình trạng khô nước trong cơ thể.
-Có nhiều trường hợp sốt vì thay đổi trực tiếp của trung tâm điều hòa thân nhiệt chứ không do tác nhân gây sốt từ ngoài hoặc trong cơ thể. Chẳng hạn khi bị u bướu, xuất huyết hoặc khối huyết não.
-Xúc động mạnh cũng làm thân nhiệt tạm thời lên cao. Có nhiều trường hợp, khi mới nhập viện, nhiệt độ lên cao trong vài ngày rồi giảm, vì người bệnh lo sợ bị bệnh nặng.
Một số loại sốt mang địa danh quốc gia như sốt Dương Tử Giang với nhiễm Schistosoma japonicum, sốt xuất huyết dịch Korea, sốt đảo Chypre do nhiễm khuẩn Brucella melitensis, ban nhiệt Sao Paulo, sốt định kỳ Mỹ USA recurrent fever….
Biến chứng của nóng sốt
Ngoài triệu chứng của bệnh, sốt cũng gây ra nhiều khó khăn cho cơ thể:
-Thay đổi ở hệ tuần hoàn, nhịp tim nhanh, huyết áp tăng khi nhiệt độ lên cao. Tăng 1°C làm nhịp tim nhanh hơn từ 10 tới 15 lần, đôi khi cũng có nhịp lạc vị (extrasystole).
Các thay đổi này có thể gây ra do tác động của vi khuẩn, độc chất. Khi hết sốt, huyết áp trở lại bình thường vì nhịp tim chậm lại và sức cản tuần hoàn ngoại vi giảm.
-Vì đổ mồ hôi nhiều cho nên thể tích máu giảm đưa tới khó khăn thêm cho các chức năng của hệ tuần hoàn. Tuy nhiên, đổ mồ hôi là phản ứng tự nhiên và có ích của cơ thể để hạ thân nhiệt.
-Thân nhiệt cao đưa đến tăng tiêu thụ oxy của các tế bào.
-Sự tiêu hóa thực phẩm bị rối loạn. Dịch vị bao tử ít tiết ra, hấp thụ thực phẩm giảm, nhu động ruột chậm lại, bệnh nhân hay bị táo bón, ít nước miếng, miêng lưỡi viêm đỏ khô, biếng ăn.
-Thay đổi thần kinh, tâm trạng đặc biệt là ở người cao tuổi và trẻ em. Bệnh nhân mê sảng, nói năng lung tung (delirium), kém suy luận.
Khi nhiệt độ lên tới 40ºC (104°F), trong người cảm thấy khó chịu; tới 41ºC (106°F) thì chức năng của não bắt đầu rối loạn, nếu lên tới 42º.2C (108°F) thì não bị tổn thương. Trường hợp này ít khi xẩy ra ngoại trừ khi bị trúng nắng heat stroke, viêm não, xuất huyết não.
-Lên cơn kinh phong, co giật cơ bắp, nhất là ở trẻ em
-Nhức đầu vì giãn nở động mạch não
-Ớn lạnh (chill) đặc biệt khi máu bị nhiễm trùng huyết (bacteremia)
-Trong một vài trường hợp, sốt có thể kích thích các virus bệnh herpes simplex đang ngủ yên, bừng tỉnh, tái hoạt động và gây bệnh.
-Giảm hồng cầu trong máu.
-Người đang có bệnh kinh niên, sốt làm bệnh trầm trọng hơn.
-Sốt vừa phải tăng tính miễn dịch, tăng khả năng thực bào, sự di chuyển của các bạch cầu đa nhân, tăng sản xuất kháng thể, giảm sự tăng trưởng của vi khuẩn. Nhưng sốt quá cao và kéo dài quá lâu lại làm suy nhược cơ chế miễn dịch.
Điều trị Sốt
Đa số các bác sĩ đều có chung ý kiến là, để giảm sốt phải điều trị nguyên nhân gây ra sốt, chẳng hạn như dùng kháng sinh với các bệnh do vi khuẩn gây ra.
Với trẻ em, theo Hội Nhi Khoa Hoa Kỳ, sốt dưới 38.9°C (102°F) không cần điều trị, trừ khi các em cảm thấy khó chịu hoặc đã bị kinh phong trong quá khứ.
Cần theo dõi tình trạng bệnh. Nếu em bé vẫn tỉnh táo, tươi cười, da dẻ hồng hào, ăn uống, chơi đùa, ngủ nghỉ như thường, thì không cần cho uống thuốc giảm nhiệt. Ngược lại khi sốt cao và gây khó chịu cho bé, có thể cho uống thuốc hạ nhiệt độ hoặc chườm lạnh.
a-Thuốc chống sốt
Thuốc giảm sốt đều rất công hiệu nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ và không nên dùng cho mọi loại sốt mà phải căn cứ vào tùy trường hợp, đặc biệt là ở trẻ em. Sốt có thể có vài ích lợi cho người bệnh. Theo nhiều nhà chuyên môn y học, chữa sốt khi nào bệnh nhân cảm thấy khó chịu và để tránh kinh phong, khô nước, rối loạn tuần hoàn, hô hấp.
Aspirin và acetaminophen là thuốc giảm sốt thường dùng nhất. Tuy nhiên, aspirin không được dùng cho trẻ em dưới 18 tuổi hoặc khi bị nhiễm virus, để tránh Hội chứng Reye. H.C.Reye là rối loạn trầm trọng, có thể chết người, thường ảnh hưởng tới gan và tế bào não. Ngoài ra cũng có thể dùng Ibuprofen.
Theo ý kiến chung của y giới, acetaminophen vẫn là thuốc an toàn và ưa thích hơn cả để trị nóng sốt.
Liều lượng phải căn cứ vào sức nặng cơ thể chứ không theo tuổi. Nên hỏi bác sĩ hoặc đọc kỹ hướng dẫn trên chai thuốc.
b-Chườm nước ấm.
Để em bé ngồi trong chậu nước ấm cao độ 4 phân. Thấm nước ấm với một cái khăn, lau nhẹ lên thân mình và chân tay. Nước sẽ làm nhiệt độ trong cơ thể giảm xuống qua sự bốc hơi. Tiếp tục làm như vậy cho tới khi nhiệt độ cơ thể giảm xuống (khoảng nửa giờ).
Đừng chườm nước lạnh hoặc túi nước đá vì có thể làm bệnh nhân run và tăng nhiệt độ. Không thoa dầu nóng hoặc cồn để tránh ngấm qua da, gây ngộ độc.
c-Giữ nhiệt độ trong nhà mát dịu
d-Không nên mặc quá nhiều quần áo.
đ-Cho uống nhiều nước (nước lã hoặc nước trái cây).
e-Để em bé chơi tự nhiên chứ đừng ép nằm trên giường.
g-Ăn uống tùy theo sự chịu đựng của người bệnh, nhưng không nhiều chất béo, khó tiêu hóa.
Thông báo cho bác sĩ nếu em bé dưới 3 tháng sốt tới 38°C (100.4°F) hoặc em bé lớn hơn với nhiệt độ trên 40°C (104°F), đồng thời không chịu ăn uống, bị tiêu chẩy, ói mửa, cơ thể có dấu hiệu khô nước, kêu đau nhức cuống họng, tai…
Với người lớn, đối phó với sốt cũng tương tự như ở trẻ em. Điều quan hệ là quan sát phản ứng của cơ thể đối với sốt.
Nếu trong người thấy rất khó chịu, mệt mỏi thì uống vài viên thuốc chống sốt rồi nghỉ ngơi, uống nhiều nước. Giới hạn nước uống có caffeine vì chất này tăng nhiệt độ cơ thể và chặn tác dụng hạ nhiệt của thuốc chống sốt.
Ở cả người lớn lẫn trẻ em, nên tới bác sĩ để khám bệnh, chữa trị khi:
a-Sốt với nhức đầu, cứng cổ, mệt lả, mất định hướng, lên cơn co giựt
b-Sốt trên  40ºC (104ºF) không thuyên giảm với chăm sóc tại nhà
c-Sốt kéo dài quá ba ngày
d-Sốt vừa phải nhưng kéo dài cả hai ba tuần lễ.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức-Texas-Hoa Kỳ

Đăng nhận xét